PV:Tỷ trọng thương mại giữa các doanh nghiệp đa quốc gia có hiện diện thương mại tại Việt Nam với các công ty liên kết ở nước ngoài đang tăng nhanh. Trong bối cảnh đó, có lẽ quản lý giá giao dịch vẫn là một trong những bài toán phức tạp?

Kinh nghiệm quản lý rủi ro khai giá tính thuế hàng nhập khẩu
Anh Bùi Ngọc Tuấn

Ông Bùi Ngọc Tuấn: Việc cơ quan hải quan thanh tra, kiểm tra thuế nội địa, hàng hóa nhập khẩu về trị giá giao dịch giữa các công ty trực thuộc đóng vai trò quan trọng đảm bảo tính công bằng trong giao dịch. giữa các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp có giao dịch thương mại với nước ngoài. Hiện nay, việc kiểm tra, điều tiết trị giá giao dịch xuyên biên giới vẫn đang được thực hiện song song giữa cơ quan hải quan và cơ quan thuế, sử dụng các nghiệp vụ tương đối khác nhau.

PV:Trong quản lý thuế, cơ quan hải quan có xu hướng giám sát xem giá hàng hóa nhập khẩu có được khai báo thấp hơn giá thực tế hay không, nhưng cơ quan thuế lại thường quan tâm đến việc doanh nghiệp có bị đẩy giá cao hơn hay không. Vậy, việc dung hòa hai yêu cầu này nên được nhìn nhận như thế nào?

Ông Bùi Ngọc Tuấn: Đúng là có thể tồn tại trên thực tế, vì nhiệm vụ quản lý của mỗi cơ quan là khác nhau. Cụ thể, một mặt hàng do doanh nghiệp tại Việt Nam nhập khẩu từ một công ty cùng tập đoàn ở nước ngoài, tại khâu khai hải quan (hoặc trong quá trình KTSTQ), cơ quan hải quan sẽ có xu hướng truy vấn trị giá hải quan của hàng hóa đó. thấp hơn giá thị trường dẫn đến giảm nghĩa vụ nộp thuế ở khâu nhập khẩu. Ngược lại, bản thân giao dịch, cơ quan thuế có thể quan tâm truy vấn giá giao dịch có cao hơn giá thị trường hay không trong trường hợp doanh nghiệp có thể kê khai tăng giá để giảm nghĩa vụ thuế. thu nhập doanh nghiệp phải trả.

Hiện nay, Luật Hải quan, Luật Quản lý thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn đã có những quy định cơ bản điều chỉnh trị giá hải quan đối với hàng hóa XNK và giá chuyển nhượng theo thông lệ quốc tế. thuộc kinh tế. Tuy nhiên, tôi cho rằng vẫn cần có thêm các quy định pháp luật để thống nhất việc kiểm tra, giám sát của cơ quan thuế và hải quan, nhằm điều chỉnh một cách công bằng, hạn chế rủi ro phát sinh về thuế. bị truy thu và xử phạt vi phạm hành chính đối với doanh nghiệp.

Lưu lượng hàng hóa giao dịch thương mại đa phương giữa Việt Nam và quốc tế ngày càng sôi động.
Luồng hàng hóa trong thương mại đa phương giữa Việt Nam và thế giới ngày càng sôi động.

PV:Được biết, ông cũng đã tham khảo một số mô hình nước ngoài trong các giao dịch liên quan đến quản lý thuế, vậy ông có kinh nghiệm gì có thể chia sẻ về vấn đề này?

Ông Bùi Ngọc Tuấn: Theo tôi được biết, cơ quan hải quan, thuế một số nước như Trung Quốc đã triển khai chương trình hợp tác liên ngành, cho phép doanh nghiệp đủ điều kiện nộp hồ sơ. Sử dụng hai cơ chế sẵn có là “Xác định trước trị giá hải quan” với cơ quan hải quan và “Thỏa thuận trước về giá (APA)” với cơ quan thuế. Theo đó, doanh nghiệp, cơ quan thuế và cơ quan hải quan sẽ ký kết thỏa thuận liên tịch giữa ba bên về việc xác định trị giá phù hợp để áp dụng đối với hàng hóa, trên cơ sở thảo luận và các số liệu liên quan.

Theo quan sát của tôi, đây là một chương trình khá hiệu quả, bởi nó giúp doanh nghiệp xác định trị giá hải quan và giá giao dịch liên kết phù hợp, được cả cơ quan thuế và hải quan chấp thuận, tiết kiệm chi phí. nguồn lực cho các bên liên quan, giảm thiểu rủi ro bị truy thu, phạt thuế sau này.

Hay một phương án khác, chẳng hạn tại Australia, doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa từ các bên liên kết có trách nhiệm thông báo với cơ quan hải quan nếu có sự tăng, giảm giá trị hàng hóa. so với trị giá khai báo tại thời điểm nhập khẩu.

Cần nhiều quy định pháp lý thống nhất

Hiện nay, Luật Hải quan, Luật Quản lý thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn đã có những quy định cơ bản điều chỉnh trị giá hải quan đối với hàng hóa XNK và giá chuyển nhượng theo thông lệ quốc tế. thuộc kinh tế. Tuy nhiên, tôi cho rằng vẫn cần có thêm các quy định pháp lý để thống nhất việc kiểm tra, giám sát của cơ quan thuế và cơ quan hải quan.

Ngoài ra, Chính phủ Úc đã xây dựng chương trình xác định trị giá hàng hóa nhập khẩu theo giá giao dịch liên kết đã điều chỉnh. Chương trình này do Cơ quan biên giới quốc gia (ABF) quản lý, nhằm đảm bảo trị giá khai báo hải quan là giá thị trường, dựa trên các phương pháp định giá để đưa ra mức giá tham chiếu cho doanh nghiệp làm căn cứ khai báo, kèm theo một tỷ lệ thay đổi nhất định. được ABF chấp thuận. Khung giá trị này áp dụng cho giá giao dịch liên kết được điều chỉnh trong vòng 4 năm tính đến thời điểm xác định khung và có hiệu lực trong 5 năm tiếp theo.

Việt Nam cũng có các quy định khung về “Xác định trước trị giá hải quan” với cơ quan hải quan và “Thỏa thuận về giá (APA)” với cơ quan thuế. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có doanh nghiệp nào được chấp thuận áp dụng cơ chế này. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể thức quản lý chung, khuôn khổ pháp lý, các bộ, ban, ngành và bản thân doanh nghiệp cần có kế hoạch nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thấu hiểu mối quan hệ mật thiết giữa hai nước. giữa hai vấn đề trị giá giao dịch. Hoạt động góp ý, xây dựng quy phạm pháp luật cũng cần được đẩy mạnh để hỗ trợ các cơ quan nhà nước bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả của các quy định mới.

PV:Xin cảm ơn ông!